MẤY ĐIỂM SAI KHI DÙNG ÂM HÁN VIỆT TRONG VIỆC HỌ

Việc dùng sai từ Hán Việt trong cúng giỗ, chép Gia phả, đề chữ ở Lăng mộ không chỉ diễn ra ở nơi “chín người mười làng” như trên Lào Cai, mà diễn ra ngay cả vùng đất cổ Hải Phòng. Ngoài việc chữ viết xấu, sai nét, tựu trung lại, người cao tuổi thì lẫn, mắt mờ, tay run; người trẻ chẳng biết chữ Hán, chẳng chịu tìm hiểu nên thường xẩy ra mấy điểm sai phổ biến như sau:

1. Dùng từ Hán Việt với văn phạm Việt:

Gọi “Trưởng họ” là đúng bởi “họ” là từ thuần Việt, muốn dùng Hán Việt phải nói là “Tộc trưởng” 族長 nhưng nhiều người vẫn gọi “trưởng tộc”! Giống như liên quan đến “tang ma” 居喪 phải gọi là “Tang lễ” 喪礼, nói “Lễ tang” là chưa chuẩn!

2. Dùng lẫn tiếng Hán Việt với tiếng thuần Việt:

“Xóm”, “số nhà”… là từ thuần Việt. Ví dụ định viết số nhà 14 phố Trần Tất Văn, thị trấn An Lão, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng thì theo văn phong Hán Việt phải viết: Hải Phòng thị, An Lão huyện, Trần Tất Văn nhai (lộ), thập tứ hiệu 海防巿安老縣陳必文街(路)拾四号 nhưng lại viết và khấn là: Hải Phòng thành, An Lão huyện, Trần Tất Văn phố, số nhà 14 thì chưa đúng!.

Ông gọi là Tổ khảo 祖考, Bà là Tổ tỷ 祖妣. Nhưng thường chỉ Cụ ông gọi đúng: Cao Tổ Khảo, Tằng Tổ khảo, Tổ khảo còn đối với các Cụ bà thì đời nào cũng gọi là “Tổ bà” hết. Gọi vậy là sai bởi “Tổ” 祖 là chỉ bậc “ông, bà” trên nữa là “Tằng” 曾, “Cao” 高, “Cao cao” 高高…và tổ là từ Hán Việt còn “bà” 婆 lại là từ thuần Việt không thể ghép vậy được. Hơn nữa gọi là “tổ bà” nghe thiếu trang trọng lại có phần khiếm nhã!. Đối với các cụ bà phải gọi là “Tổ tỉ”, “Tằng Tổ tỉ”, “Cao Tổ tỉ”…Tương tự như vậy, nếu chỉ người đàn bà có chồng đã chết phải gọi người đàn bà góa (檀婆寡, toàn Nôm) hay người quả phụ (寡父,toàn Hán Việt), gọi “góa phụ” là chưa đúng.

Hay như viết “Từ đường họ Lương” cũng không chuẩn mà phải ghi “Lương tộc Từ đường” 梁 族 祠 堂 hay “Nhà thờ họ Lương”.

3. Sai nghĩa gốc Hán Việt.

Người học chữ Nho xưa vắng dần. Nay các cháu chỉ học Anh văn và nếu có học Trung văn thì là tiếng Hán hiện đại, với chữ Giản thể. Mấy ai còn rành âm Hán Việt và chữ Phồn thể. Song cần nhớ những danh xưng Hán Việt thường gặp trong cúng giỗ ví như người Cha khi còn sống gọi là “phụ” 父, chết gọi là “khảo” 考, rước vào miếu thờ gọi là “nỉ” 禰.

Như vậy đàn ông gọi là “khảo”, đàn bà kêu là “tỉ” sau từ chỉ ngôi thứ. Đặc biệt nhớ rằng đời sau mà dùng bài văn khấn của đời trước phải tăng lên một bậc. Do vậy khi khấn cúng hay đề bia mộ tốt nhất nên khấn, viết đại từ chỉ rõ số đời: Đệ Nhất (Nhị, Tam…) đại tổ, tức Tổ đời thứ Nhất (Hai, Ba…). Dùng đích danh : Cao tổ, Tằng tổ, Tổ…chỉ đúng với đời người soạn chúc văn hay đề bia. Khi con cháu người đó tiếp thu vô hình trung lại vẫn là “Cao tổ, Tằng tổ, Tổ…” thì nguy, bởi thực tế các cụ đã nâng đời rồi: Cao tổ thành Cao cao Tổ, Tằng tổ thành Cao tổ, Tổ thành Tằng tổ…rồi! Đề chữ ở Bia mộ cũng vậy, nên ghi rõ là “Đời thứ…”!

Một trường hợp hay gặp nữa là các cụ xưa hay viết 梁貴公諱秀字德隆 “Lương quý công húy Tú, tự Đức Long” tức là cụ già tôn kính họ Lương tên là Tú, tự Đức Long. Sau này con cháu chẳng hiểu lại nghĩ cụ là Lương Quý Công…

Tên của 2 cô, bố và chú tôi là: Di, Thị, Thân, Dật (怡,市, 親, 逸 với nghĩa: Vui vẻ, cái chợ, thương yêu, nhàn rỗi) nhưng cô Di ai nấy gọi cô Ri, chú Dật thành chú Rật và chính anh tôi lại đề bia mộ cô Thị là Lương Thị Thi, với biện hộ “ai lại Lương Thị Thị bao giờ” ! Anh có biết đâu họ tên đầy đủ của cô tôi viết bằng Hán tự cho 3 chữ khác nhau: 梁氏市.

Đặc biệt địa danh, cấp hành chính cố hương, phẩm tước của tiền nhân thay đổi theo năm tháng cần tra xét kỹ không rất dễ nhâm.

4. Nhầm chữ cùng âm:

Ngày xưa các cụ đặt tên con cháu theo bộ, theo mối liên quan…khi cần phục chế lại Hán tự chỉ tên cần biết tên của bố, mẹ, anh, em người đó mới chọn được chưa chính xác bởi cũng âm đọc đó nhưng được ghi bởi nhiều chữ với nghĩa khác nhau. Chữ chỉ “họ” cũng vậy. Họ của tôi là Lương, được viết bởi chữ 梁, nghĩa là: Cái cầu, trong từ “tân lương” 澤梁 hay Cái xà nhà trong từ “thượng lương” 上梁.

Thế mà được viết thành chữ 良 (lành hiền, lương thiện) trong khi ghi trên Mộ: 高祖考良貴公諱藝! Đúng ra phần mộ này phải ghi: 第一代祖考梁貴公諱藝之墓. Ở đây tôi thay: 高祖考 bằng: 第一代祖考, thay: 良貴公諱藝 bằng: 梁貴公諱藝 và thêm 之墓. Cũng như vậy đối với mộ bà: thay 高祖妣良氏諱頠 bằng: 第一代祖妣梁貴氏諱頠之墓.

Mặt khác họ nhà tôi mà viết là 凉德 thành “đức mỏng” nguy hại ngay!

5. Sai lệch khi trùng tu:

Những Đại tự, Câu đối đắp ở cổng làng, mộ phần, nhà tổ lâu ngày bị bong tróc, mờ nên khi trùng tu phải đắp, sơn lại. Thợ chẳng biết chữ nên rất dễ tô, đắp sai. Chữ Hán lại vốn lắm nét, một âm Hán Việt được viết bởi nhiều chữ, một chữ lắm nghĩa và nhiều chữ tương tự nhau. Bởi thế mới có chuyện: chữ “Tác” 作 (zuò) thuộc bộ nhân (亻) nghĩa là “nhấc lên” viết thành chữ “Tộ” 怍 (zuò) thuộc bộ tâm (忄) với nghĩa “tủi thẹn”; chữ “Ngộ” 遇 (gặp) vẽ ra chữ “Quá” 過 (vượt)…

Ví như đôi câu đối “祖功開破光前代; 宗德滋培喻後昆” đọc là: “Tổ công khai phá quang tiền đại; Tôn đức tư bồi dụ hậu côn” đại ý: “Công ơn khai phá của tổ tiên làm vẻ vang đời trước; Đạo đức cha ông bồi đắp làm rạng rỡ lớp sau”. Trong đó chữ “Côn” 昆 nghĩa là “nối” nên “hậu côn” là “con cháu sau này” nhưng nếu khi tô vẽ lại thêm bộ “Thuỷ” 氵 vào thành chữ “Hỗn” 混 , tức “Hỗn tạp” thì lúc đó “hậu hỗn” nghĩa rất xấu, còn ra gì nữa!

6. Dùng thừa từ Hán Việt, từ thuần Việt:

Ngày giỗ là từ thuần Việt đơn giản gọi là “ngày giỗ”, còn theo Hán Việt là “chính kị” 正忌 hay “kị nhật” 忌日 đừng gọi là “ngày kị nhật”, bởi “nhật” là “ngày” rồi!

“Tự” 寺 đã là “Chùa” do vậy nói “Liên hoa tự” 莲华寺, “Tràng Linh tự” 場靈寺 hay “Chùa Liên Hoa”, “Chùa Tràng Linh” là đủ, đừng nói “Chùa Liên Hoa tự”, “Chùa Tràng Linh tự”!

“Đường” 堂 là cái nhà để làm lễ, nên nói “Từ đường” 祠堂 (Hán Việt) hay “Nhà tổ” ( 茄祖, thuần Việt) là được chứ nói “Nhà Từ đường” chẳng theo quy định nào.

7. Không phân biệt được chữ Nôm và chữ Hán:

Gia phả, Long văn xưa soạn bằng chữ Hán nhưng tên người lại là tên Nôm, viết bằng chữ Nôm và thường đặt tên xấu cho dễ nuôi. Rất nhiều chữ Nôm mượn hai nửa của 2 chữ Hán hoặc có khi mượn nguyên cả chữ Hán. Cái khó là chỗ đó thường nữ hay con nhà ít học hay đặt tên Nôm. Ví dụ đặt con là “Hoe” ý là cuối bét, con lại đen nên gọi là “Hoe Đẻn” rồi nhưng khi chép phả lại mượn chữ 槐 ghi âm “hoe”, chữ 典 ghi âm “đẻn”, đời sau dịch thành “Hòe Điển”, không ăn nhập gì với gia cảnh!. Hoặc như Đệ Nhất Tổ tỉ họ nhà tôi là Lương Thị Còi. Chữ “Còi” dứt khoát phải viết bằng chữ Nôm, nhưng Nôm thì lại mượn nửa chữ “côi” 傀 để ghi âm và nửa từ “phiêu” 票 ghi nghĩa (nhẹ nhàng) mà được chữ

Admin (St)

© 2023, Nóng Trong Ngày. ( Theo : www.tintamlinh.com )

Comments (0)
Add Comment