Mệnh 60 Hoa Giáp Và Ngũ Hành

– Giáp Tý, Ất Sửu: Hải trung kim. Ngũ hành của Tý đối ứng với thủy vượng, kim tử ở tý, tang mộ ở sửu.
– Bính Dần, Đinh Mão: Lư trung hỏa. Bính, đinh trong ngũ hành thuộc hỏa, lại được dần, mão thuộc mộc trong ngũ hành trợ giúp. Lửa trong lò mới sinh, vạn vật mới bắt đầu sinh trưởng. Trời đất như lò lửa, âm dương như than củi.


– Mậu Thìn, Kỷ Tỵ: Đại lâm mộc. Thìn biểu hiện cho đất đai hoang dã, tỵ đứng ngôi thứ 6 trong địa chi, mộc này có lợi, sinh cành lá xum xuê. Cây to xum xuê sinh ở nơi đất đai hoang dã.
– Canh Ngọ, Tân Mùi: Lộ bàng thổ. Mùi ngũ hành thổ sinh mộc, khiến cho ngọ ngũ hành hỏa được thành hỏa vượng. Thổ ngược lại phải chịu trở ngại. Thổ là nơi sinh mộc, mộc lại sinh hỏa, hỏa lại đốt thổ, cho nên thổ bị hại giống như đất bụi ven đường. Lộ bàng thổ nếu được thủy tưới có thể về với đất mà sinh vạn vật. Nếu được kim giúp thì xây dựng cung điện phú quý một thời.
– Nhâm Thân, Quý Dậu: Kiếm phong kim. Ngũ hành của thân, dậu là kim, đồng thời kim trong quá trình sinh trưởng vị trí lâm quan ở thân, đế vượng ở dậu. Kim sinh ra nếu thịnh vượng thì rất cứng, sự vật cương cứng không thể vượt qua được lưỡi kiếm.
– Giáp Tuất, Ất Hợi: Sơn đầu hỏa. Tuất, hợi ánh lửa chiếu sáng cực cao, lửa trên núi. Giáp, ất thuộc mộc. Nắng chiều tà mặt trời gác núi tỏa sáng lung linh. Sơn đầu hỏa có thể thông với trời, nên mạng này quý và hiển vinh. Nhưng cần núi có mộc, chỉ có hỏa không thì ánh lửa khó chiếu đến cửa trời. Ngoài ra lửa ở núi lại sợ thủy, nếu gặp đại hải thủy (Nhâm Tuất, Quý Hợi) tương khắc thì hung thần tới nơi.
– Bính Tý, Đinh Sửu: Giang hạ thủy. Thủy trong ngũ hành vượng ở tý, suy ở sửu. Thủy trong Bính tý, Đinh sửu gọi là nước ở khe suối, khi mới lăn tăn gợn sóng, tiếp sau là hợp thành dòng chảy xiết va vào đá mà tung toé, cuối cùng hợp với các nhánh thành dòng chảy về hạ lưu. Nước khe núi là nước trong thanh. Theo như trong sách, thủy này được sa trung kim (giáp ngọ, ất mùi), hoặc kiếm phong kim (nhâm thân, quý dậu) thì thích hợp. Thủy, hỏa không dung nạp nhau, thổ lại làm cho nước suối đục, cho nên không được gặp thổ và hỏa. Tốt nhứt là gặp giáp dần, ất mão (đại khê thủy) tương hợp tượng trung cho suối nhỏ hợp thành sông, càng chảy càng dài không phải lo nghĩ.


– Mậu Dần, Kỷ Mão: Thành đầu thổ. Thiên can mậu, kỷ ngũ hành thuộc thổ. Dần, mão ngũ hành thuộc mộc giống như tích thổ thành núi. Kinh đô của hoàng đế cư ngụ dùng đất đắp thành. Mệnh này kỵ nhâm tuất, quý hợi (đại hải thủy), mậu tý, kỷ sửu (tích lịch hỏa).
– Canh Thìn, Tân Tỵ: Bạch lạp kim. Kim hình thành trong đất mà sau lại ở cùng với hỏa. Tuy hình thái của kim đã bước đầu hình thành nhưng chưa cứng rắn, cho nên gọi là kim giá đèn. Khi này khí của kim vừa mới phát triển, giao hòa với tinh hoa của mặt trời mặt trăng mà kết khí của âm dương. Tính chất mới hình thành của kim giá đèn thích thủy như canh thìn, tân tỵ. Gặp ất tỵ trong số mệng gọi là “phong mãnh hổ cách” thi cử, học vấn có đường đi tốt đẹp. Nếu như gặp thủy thì nên gặp ất dậu, quý tỵ. Trong số mệnh cho là mệnh quý, nhưng bởi bạch lạp kim tính yếu cho nên sợ mộc khắc, trừ khi gặp được hỏa yếu thì lại cần có mộc trợ giúp.
– Nhâm Ngọ, Quý Mùi: Dương liễu mộc. Mộc tử ở ngọ, mộ tàng ở mùi. Mộc đã tử vong tàng mộ, chỉ có thể mượn thiên can nhâm, quý trong ngũ hành thủy để cứu sống. Nhưng rốt cuộc sức sống mộc vẫn yếu đuối giống như tằm nhả ngàn mối dây tơ. Cây dương liễu chỉ thích hợp với bính tuất, đinh hợi thuộc thổ, nhưng lại thích thủy chỉ trừ đại hải thủy. Bản tính dương liễu mộc yếu đuối gặp hỏa thì dễ chết yểu, đồng thời nếu gặp canh thìn, tân dậu (thạch lựu mộc) sẽ bị cây thạch lựu thịnh vượng áp chế khiến cho dương liễu mộc một đời bần tiện.
– Giáp Thân, Ất Dậu: Tuyền trung thủy. Kim kiến lộc ở thân, vượng ở dậu. Kim sau khi sinh thịnh vượng đến cực điểm thì dựa vào hỏa để sinh thủy, nhưng thủy khi mới sinh thì ít ỏi lại không vượng cho nên gọi là nước trong suối. Từ nguồn gốc của nó mà nói, có kim thì nguồn nước không bao giờ dừng. Lấy giáp ngọ, ất mùi (sa trung kim), canh tuất, tân hợi (thoa xuyến kim) là tốt, gặp thủy gặp mộc cũng tốt. Nếu như trong tứ trụ năm, tháng, ngày, giờ sanh nếu năm và giờ trụ đều có thủy, ngày tháng hai trụ đều có mộc như vậy gọi là mệnh đại phú đại quý.
– Mậu Tý, Kỷ Sửu: Tích lịch hỏa. Ngũ hành sửu thuộc thổ, ngũ hành tý thuộc thủy. Đây là hỏa trong thủy thuộc tính rồng thần, cho nên ví như lửa sấm sét, như điện chớp biến ảo vô cùng. Bản chất thủy hỏa vốn không bao dung nhau mà nay thủy hỏa hợp nhứt, sách xưa cho là một loại rồng thần, khi rồng thần đến không thể không có gió mưa sấm chớp, do đó tích lịch hỏa với thủy, thổ, mộc gặp nhau hoặc tốt hoặc không có hại. Kỵ gặp hỏa vì hai hỏa gặp nhau tính khô nên xấu.
– Bính Tuất, Đinh Hợi: Ốc thượng thổ. Bính, đinh ngũ hành thuộc hỏa. Tuất, hợi như cánh cửa trời. Hỏa đang chác lại ở trên cao, vậy thì thổ tự nhiên không ở bên dưới, cho nên gọi là đất ten mái nhà. Ở đây giải thích không được đúng lắm vì đất trên mái nhà chỉ là gạch ngói. Tuất, hợi gặp thủy hòa lại thành bùn, lấy hỏa nung mới thành gạch ngói xây nhà. Đất trên mái nhà là gạch ngói cần mộc là giá đỡ, sau mới cần kim để trang điểm. Phòng ốc kim huy hoàng là tượng trưng cho đại cát đại quý. Cho nên gặp kim lưỡi gươm, kim trang sức đều là mệnh phú quý. Nhà cửa sợ gặp hỏa hoạn cho nên ốc thượng thổ cũng sợ hỏa. Nhưng thiên thượng hỏa lại rất tốt vì tượng trưng cho ánh nắng mặt trời.


– Canh Dần, Tân Mão: Tùng bách mộc. Mộc trong ngũ hành trưởng thành ở dần, thịnh vượng ở mão. Mộc thế sinh thịnh vượng không phải loại yếu đuối, cho nên gọi là gỗ cây tùng, tích hyết hứng sương che nắng mặt trời, gió thổi qua vi vu như nhạc cụ, cành lá dao động như lá cờ bay. Cây tùng là loại cây có sức sống mãnh liệt, cho nên trong hỏa chỉ có bính dần, đinh mão là lửa trong lò, trong thủy chỉ có nhâm tuất, quý hợi đại hải thủy mới có thể hại được tùng bách mộc, ngoài ra tất cả đều vô hại. Gỗ cây tùng sợ gặp đại lâm mộc, dương liễu mộc, tuy cùng hành mộc nhưng chất không giống mà sinh lòng đố kỵ. Tùng bách mộc thích gặp kim, gặp nhau là đại quý. Ngoài ra còn có một loại mệnh cách gọi là “thượng tùng đông tú” tức là ba trụ tháng, ngày, giờ thuộc đông tú (nhâm, quý, hợi, tý thuộc đông) mệnh cách này là mệnh phú quý.
– Nhâm Thìn, Quý Tỵ: Trường lưu thủy. Thìn trong ngũ hành là nơi tích trữ nước, tỵ trong ngũ hành là nơi sinh kim. Trong ngũ hành kim sợ thủy, kim trong tỵ có hàm chất thủy bởi vì nơi tích trữ thủy gặp kim sinh thủy cho nên nguồn nước liên tục không ngừng mà gọi là nước sông dài. Nước sông dài ở đông nam lấy yên tĩnh làm quý. Nước sông dài th có cuồn cuộn không dừng, kim có thể sinh thủy cho nên nước sông dài gặp kim là tốt. Sợ ggạp thủy bởi thủy nhiều quá dễ gây lũ lụt, đồng thời thổ, thủy tương khắc thổ gặp bính tuất, đinh hợi, canh tý, tân sửu thì khó tránh được tai họa, cần phải có kim sinh thủy cứu ứng. Ngoài ra, thủy và hỏa cũng tương khắc nhưng cũng không tuyệt đối. Nước sông dài gặp giáp thìn, ất hợi lửa ngọn đèn và lửa trên núi, nhưng thìn là rồng, rồng lại gặp thủy ý là rồng về biển, mệnh cách cực tốt.
– Giáp Ngọ, Ất Mùi: Sa trung kim. Ngọ là nơi đế vượng của hỏa trong ngũ hành. Hỏa vượng thì kim suy. Mùi là nơi có hỏa suy, hỏa suy yếu kim mới có thể từng bước trưởng thành. Hỏa vừa suy, kim mới có hình cho nên lực không thể lớn mạnh mà gọi là kim trong cát. Kim này mới bắt đầu hình thành chưa thể dùng được cho nên cần có hỏa để luyện. Nhưng hỏa quá vượng thì kim bại, đồng thời cần phải có mộc lại khắc chế kim, khiến kim không thể tùy tiện mà thịnh suy. Đồng thời phải lấy hỏa trên núi, hỏa dưới núi, hỏa ngọn đèn tính ôn hòa luyện. Trong số mệnh cho rằng đây là mệnh cục của thiếu niên vinh hoa phú quý. Sa trung kim cần có thủy tĩnh, nếu nước sông dài và nước biển lớn thì ngược lại đem vùi cát đi. Cho nên cần phối hợp với nước khe núi, nước trong suối và nước trên trời mới tốt. Kim trong cát cũng sợ gặp đất ven đường, cát trong đất và đất vó ngựa vì sẽ bị chôn vùi.
– Bính Thân, Đinh Dậu: Sơn hạ hỏa. Thân là cửa mở xuống dưới đất, dậu là nơi về cửa thái dương, mặt trời xuống núi dần dần tối đi, cho nên gọi là lửa dưới núi. Mặt trời đã xuống núi thì tự nhiên gặp thổ, gặp mộc là tốt. Đó là ánh sáng mặt trời vào đêm không thích gặp lửa sấm sét, lửa mặt trời và lửa đèn.
– Mậu Tuất, Kỷ Hợi: Bình địa mộc. Mậu ý nghĩa là đồng bằng, hợi là nơi sinh ra mộc. Cây sinh ở đồng bằng thì không thể là một quần thể lớn rộng mà chỉ là từng đám cây nhỏ, cho nên gọi là cây ở đồng bằng. Cây đồng bằng thích mưa nhưng không thích sương giá băng tuyết, cũng không thích nhiều đất mà cũng không thích rộng rãi, thường bị người chặt phá vì vậy nên sợ kim, nếu gặp ki là bất lợi. Bình địa mộc thích thủy, thổ và mộc. Ngoài ra có một loại mệnh quý gọi là “hàn cốc hồi xuân” tức là người sinh ở mùa đông trong mệnh lại gặp dần, mão. Hai chi này đều thuộc mộc nên gọi là sinh trưởng của cây trong mùa đông là một loại quý mệnh.


– Canh Tý, Tân Sửu: Bích thượng thổ. Sửu là chính vị của thổ trong ngũ hành, nhưng tý là nơi thủy trong ngũ hành thịnh vượng. Thổ gặp thủy tràn lan mà biến thành bùn sình, cho nên chỉ có thể đắp đập mà gọi là đất trên tường. Đất dùng làm nhà, đầu tiên phải dựa vào xà cột cho nên gặp mộc sẽ tốt, gặp hỏa thì xấu, gặp thủy cũng là mệnh hay nhưng trừ gặp nước biển lớn. Còn với kim thì chỉ thích kim bạch kim.
– Giáp Thìn, Ất Tỵ: Phúc đang hỏa. Thìn là trời đã sáng, tỵ là sắp đến buổi trưa. Lửa ngọn đèn chính là lửa chiếu sáng ban đêm, không tách khỏi được với gỗ và dầu. Dầu trong ngũ hành thuộc thủy nên ngọn đèn gặp mộc gặp thủy là tốt. Đêm chủ âm do đó lửa ngọn đèn kỵ mặt trời. Lửa ngọn đèn có hai loại mệnh quý, một là “che đèn thêm dầu” gặp nước dưới giếng, nước dưới khe, nước sông dài. Và một loại “dưới đèn múa kiếm” gặp kiếm phong kim. Ngoài ra lửa ngọn đèn sợ gặp thổ, trong ngũ hành chỉ trừ bính tuất, đinh hợi. Phúc đăng hỏa thích hỏa nhưng trừ lửa sấm sét là lửa rồng thần tất phải có gió thổi làm tắt lửa đèn.
– Nhâm Dần, Quý Mão: Kim Bạch Kim. Dần, mão ngũ hành thuộc mộc là nơi mộc vượng. Mộc vượng thì kim bị suy yếu. Kim trong ngũ hành tuyệt ở dần, thai ở mão. Tóm lại kim ở đây mềm yếu không có lực cho nên gọi là kim loại trang sức. Mọi người dùng kim bạch kim làm đồ trang sức, người xưa dùng để phủ chữ trong các đền chùa và các khí cụ khác, ánh sáng của nó đẹp đẽ tôn quý. Nguồn gốc là do kim gia tạo thành. Kim bạch kim gặp đất trên thành, đất trên tường mới có cơ hội phát triển. Trong sách nói mệnh kim bạch kim gặp mậu dần (đất trên thành) gọi là “Ngọc trên núi”. Quý mão trong kim bạch kim gặp kỷ mão gọi l “thổ ngọc đông thăng” đều là mệnh quý.
– Bính Ngọ, Đinh Mùi: Thiên hà thủy. Bính, đinh thuộc hỏa, ngọ là nơi ngũ hành hỏa vượng những nạp âm gọi thủy. Thủy từ trong hỏa sinh ra cho nên xem như nước trên trời. Nguyên khí lên cao, khí thế sung túc hóa thành mây mù rơi xuống thành mưa, thúc đẩy sự sinh trưởng của vạn vật. Nước trên trời vốn ở trên cao, cho nên kim, mộc, thủy, hỏa, thổ ở dưới đất không thể khắc chế được. Duy chỉ có canh tý, tân mùi là đất trên tường là tương xung với thiên hà thủy.
– Mậu Thân, Kỷ Dậu: Thành đầu thổ hay Đại dịch thổ. Thân là quẻ khôn, khôn trong bát quái ý nghĩa là đất. Dậu là quẻ đoài, đoài trong bát quá là đầm ao. Mậu, kỷ trong ngũ hành thuộc thổ, giống như bụi bay trong không khí, đất dịch chuyển. Nguyên khí dần dần hồi phục, vạn vật sinh mệnh thu lại đều giống như đất dịch chuyển quay về với mặt đất. Đất dịch chuyển thuộc mệnh cách tương đối cao quý, biểu hiện cho khuynh hướng quay về với bản tính. Đất chuyển dịch thích nước tương đối thanh tĩnh như nước giếng, nước dưới khe, nước sông dài. Thích kim thanh tú như kim trang sức, kim loại trắng. Có một số can chi khí vượng thế mạnh đất chuyển dịch gặp phải thì bị vùi chôn như gặp nước biển lớn, lửa trên núi, lửa dưới núi, lửa ngọn đèn. Gặp phải lửa sấm sét đành phải dùng thủy để hóa giải.


– Canh Tuất, Tân Hợi: Thoa xuyến kim. Ngũ hành kim suy tại tuất, bện tại hợi. Kim đã suy yếu lại bệnh, cho nên rất mềm yếu gọi là kim loại trang sức. Kim trang sức là vàng bạc liệu có phú quý không? không nhứt định là như vậy. Vạn vật cái quý nhứt là được bản tính tự nhiên, cho nên kim trang sức là vật để đeo trang sức đã bị nung nấu bị tổn thương. Kim trang sức sợ gặp hỏa, thích gặp nước giếng, nước khe núi, nước trong suối, nước sông dài là tốt. Nhưng sợ gặp nước biển lớn ví như đá rơi đáy biêNể Ngoài ra còn thích cát trong đất bởi vì thổ có thể sinh kim.
– Nhâm Tý, Quý Sửu: Tang thạch mộc. Ngũ hành tý thuộc thủy, ngũ hành sửu thuộc thổ sinh kim. Thủy có thể làm cho mộc sinh trưởng tươi tốt, những kim lập tức có thể chặt nó, giống như cây dâu vừa mới sinh trưởng bị người ta chặt cho nên gọi là gỗ cây dâu. Quá trình sinh trưởng của cây dâu nếu gặp cát trong đất, đất ven đường, đất chuyển dịch nơi sinh nó thì rất tốt. Gặp nước sông dài, nước dưới khe, nước trong suối sẽ giúp nó tươi tốt. Nếu gặp canh dần, tân mão gỗ cây tùng bách đây gọi là mạnh yếu giúp nhau, gặp gỗ cây liễu người ta gọi là “dâu liễu thành rừng” là cảnh an cư lập nghiệp. Gặp gỗ rừng lớn giống như nhánh sông gặp dòng sông là rất tốt. Chỉ có gặp gỗ đồng bằng, gỗ cây lựu sẽ bị tàn phá chèn ép là xấu.
– Giáp Dần, Ất Mão: Đại khê thủy. Dần, mão thuộc phương đông, dần là nơi gió đông thịnh vượng. Mão ở chính đông, nếu nước hướng chảy chính đông thì tha hồ thỏa thích trên đường tụ hội thành dòng chảy ra sông gọi là nước suối lớn. Nước suối lớn cần chảy về biển mà điều quan trọng là chảy liên tục không dứt. Do đó nước suối lớn nên gặp kim sinh thủy giúp. Nếu gặp các loại thổ khác sinh mộc đều không hay. Chỉ có nhâm tý, quý sửu là núi, lại gặp nước, trong sách gọi là “nước chảy quanh núi” mới là mệnh quý.
– Bính Thìn, Đinh Tỵ: Sa trung thổ. Thổ trong ngũ hành mộ ở thìn, tuyệt ở tỵ. Bính, đinh ngũ hành thuộc hỏa trưởng thành tại thìn, hiển thân tại tỵ. Thổ này ở thế mộ tuyệt nhưng hỏa lại vượng khiến cho nó có thể làm lại mới tất cả. Giống như những đốm trong khi đốt bay lên rồi rơi xuống thành thổ, cho nên gọi là cát trong đất. Cát trong đất có kim là quý, lại cần nước trong lọc kim ra, cho nên gặp nước, gặp kim là quý. Sa trung thổ thích gặp lửa trên trời có ánh thái dương bãi cát chạy dài cảnh mới đẹp. Lại thích gỗ cây dâu, cây dương liễi vì hai loại gỗ này cát mới có thể trồng nó, ngoài ra gặp các loại mộc khác đều không tốt.
– Mậu Ngọ, Kỷ Mùi: Thiên thượng hỏa. Ngọ là giai đoạn cực thịnh vượng của hỏa trong ngũ hành. Mùi, kỷ là nơi mộc sinh trưởng khiến cho thế hỏa càng vượng. Hỏa mạnh bốc cao gọi là lửa trên trời, là mặt trời nên thích gặp mộc, thủy, kim để điều hòa phối hợp biến hóa khiến cho thủy tươi, mộc tốt. Mộc giúp hỏa bốc cháy. Thiên thượng hỏa thích lửa ngọn đèn, ngoài ra với các hỏa khác đều tương khắc. Hỏa này gặp thổ, nếu có kim, mộc thì hình thành một mệnh cực quý. Lửa trên trời nếu đơn độc với thủy thì dễ hình thành thủy hỏa tương khắc.
– Canh Thân, Tân Dậu: Thạch lựu mộc. Thân biểu hiện cho tháng 7, dậu biểu hiện cho tháng 8. Khi này cây cối đã bắt đầu tàn lụi, chỉ có cây thạch lựu là kết trái. Thứ cây này vào mùa thu kết trái cho nên tính mộc cứng rắn, với thủy, mộc, thổ, kim qua lại có thể hòa hợp thành tốt. Duy chỉ có nước biển lớn thế thủy ào ạt gặp nó sẽ bần cùng, bịnh tật. Có thể gặp lửa trên trời, lửa sấm sét, lửa trong lò, những hỏa ấy dự báo điềm xấu. Gỗ thạch lựu thường bao hàm mệnh quý như người sinh tháng 5, lại có mang một hỏa gọi là “thạch lựu phun lửa”. Gỗ gặp cây dương liễu gọi “hoa hồng liễu xanh”.
– Nhâm Tuất, Quý Hợi: Đại hải thủy. Thủy trong ngũ hành tại tuất là giai đoạn đã thành thục, tại hợi cũng là giai đoạn này, do đó thủy ở đây thêm lực hùng hậu, đồng thời ngũ hành của hợi thuộc thủy biểu hiện của sông hồ đổ ra biển cho nên gọi là nước biển lớn. Biển mênh mông thế vô cùng tận không có gì có thể so sánh được. Đó là nơi quy tụ của các con sông cho nên các loại nước trên trời, nước sông dài, nước suối lớn gặp nước biển lớn đều tốt. Nhâm thìn trong nước sông dài phối hợp với nước biển lớn gọi là “rồng quay về biển” mệnh này phú quý một đời không ai so nổi. Đại hải thủy thích lửa trên trời vì mặt trời mọc ở biển đông. Thích kim đáy biển, và thích mộc gỗ cây dâu, cây dương liễu. Đại hải thủy thích đất dịch chuyển và đất bên đường. Ngoài ra tất cả đều không chịu nổi nước biển lớn, nước biển lớn gặp lửa sấm sét tạo thành thế nước sung hãn, phong ba bão táp. Mệnh người như vậy một đời lao khổ. Cho nên cần phải có thế núi hùng hậu để trấn giữ biển.

© 2018, Nóng Trong Ngày. ( Theo : www.tintamlinh.com )

Comments (0)
Add Comment